Pháp luật Hôn nhân và Gia đình

Chia tài sản chung khi không đăng ký kết hôn?


Chị Hà, địa chỉ ở Ba Đình hỏi:

Tôi và anh T sống chung với nhau nhưng không đăng ký kết hôn từ năm 2010. Tôi có một ngôi nhà đứng tên tôi do cha mẹ tặng cho, tuy nhiên tôi và anh ấy có chung tiền cải tạo, nâng cấp nhà từ 2 tầng lên 6 tầng để ở, kinh doanh nhà nghỉ. Nay tôi không thể tiếp tục chung sống với anh ấy thì tài sản trên sẽ xử lý như thế nào, liệu tôi có mất ngôi nhà của tôi không?

Luật Khang Thái xin tư vấn như sau:

Việc anh/chị chung sống với nhau như vợ chồng không đăng ký kết hôn sẽ không được pháp luật thừa nhận là vợ chồng, và tài sản trên cũng không phải là tài sản chung của vợ chồng theo Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 (LHNGĐ năm 2014) nên việc giải quyết hậu quả về tài sản khi nam nữ sống chung chia tay được quy định tại điều 14 LHNGĐ năm 2014 như sau:

Điều 14. Giải quyết hậu quả của việc nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn

1. Nam, nữ có đủ điều kiện kết hôn theo quy định của Luật này chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn thì không làm phát sinh quyền, nghĩa vụ giữa vợ và chồng. Quyền, nghĩa vụ đối với con, tài sản, nghĩa vụ và hợp đồng giữa các bên được giải quyết theo quy định tại Điều 15 và Điều 16 của Luật này.

2. Trong trường hợp nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng theo quy định tại khoản 1 Điều này nhưng sau đó thực hiện việc đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật thì quan hệ hôn nhân được xác lập từ thời điểm đăng ký kết hôn.

Điều 16. Giải quyết quan hệ tài sản, nghĩa vụ và hợp đồng của nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn

1. Quan hệ tài sản, nghĩa vụ và hợp đồng của nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn được giải quyết theo thỏa thuận giữa các bên; trong trường hợp không có thỏa thuận thì giải quyết theo quy định của Bộ luật dân sự và các quy định khác của pháp luật có liên quan.

2. Việc giải quyết quan hệ tài sản phải bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của phụ nữ và con; công việc nội trợ và công việc khác có liên quan để duy trì đời sống chung được coi như lao động có thu nhập.

" Do giữa anh chị bạn không có quan hệ vợ chồng nên không phát sinh quyền và nghĩa vụ giữa vợ chồng. Quan hệ tài sản sẽ được giải quyết theo thỏa thuận giữa các bên; trong trường hợp không có thỏa thuận thì giải quyết theo quy định của Bộ luật dân sự và các quy định khác của pháp luật có liên quan.

Theo đó, căn cứ Bộ luật dân sự 2005 về tài sản chung như sau:

Điều 224. Chia tài sản thuộc hình thức sở hữu chung

"1. Trong trường hợp sở hữu chung có thể phân chia thì mỗi chủ sở hữu chung đều có quyền yêu cầu chia tài sản chung; nếu các chủ sở hữu chung đã thoả thuận không phân chia tài sản chung trong một thời hạn thì mỗi chủ sở hữu chung chỉ có quyền yêu cầu chia tài sản chung khi hết thời hạn đó; khi tài sản chung không thể chia được bằng hiện vật thì được trị giá thành tiền để chia.

2. Trong trường hợp có người yêu cầu một người trong số các chủ sở hữu chung thực hiện nghĩa vụ thanh toán khi người đó không có tài sản riêng hoặc tài sản riêng không đủ để thanh toán thì người yêu cầu có quyền yêu cầu chia tài sản chung để nhận tiền thanh toán và được tham gia vào việc chia tài sản chung, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác. Nếu không thể chia phần quyền sở hữu bằng hiện vật hoặc việc chia này bị các chủ sở hữu chung còn lại phản đối thì người có quyền có quyền yêu cầu người có nghĩa vụ bán phần quyền sở hữu của mình để thực hiện nghĩa vụ thanh toán."

Như vậy, việc chia tài sản được thực hiện theo thỏa thuận của anh/chị. Trường hợp anh/chị không thỏa thuận được thì việc phân chia theo pháp luật sẽ như sau:

- Về quyền sử dụng đất: Vì GCNQSDĐ mang tên chị nên khi chia tay, quyền sử dụng đất vẫn là của chị.

- Về ngôi nhà: Chị cần thanh toán phần góp của anh T tạo dựng nên ngôi nhà này (có chứng cứ chứng minh phần vốn góp)

Xin trân trọng cảm ơn!./.

Gửi yêu cầu