KHÔNG ĐĂNG KÝ KẾT HÔN ĐƯỢC CHIA TÀI SẢN CHUNG HAY KHÔNG
- Hiểu thế nào về chung sống như vợ chồng:
Khoản 7, Điều 3 của Luật hôn nhân và gia đình 2014 đã đưa ra quy định về việc "Chung sống như vợ chồng" trong mối quan hệ giữa nam và nữ. Tuy nhiên, thực tế cho thấy tình trạng sống chung như vợ chồng không chỉ tồn tại dưới một dạng mà còn xuất hiện trong nhiều hình thức khác nhau.
Một trong những dạng thức này là việc sống thử trước khi kết hôn. Trong trường hợp này, nam và nữ quyết định sống chung với nhau nhằm kiểm tra mức độ hòa hợp và thích hợp của mối quan hệ trước khi tiến tới việc kết hôn chính thức. Đây có thể coi là một giai đoạn thử nghiệm và khám phá, giúp cả hai bên hiểu rõ hơn về nhau và khả năng sống chung lâu dài.
Ngoài ra, sống chung như một gia đình cũng là một hình thức phổ biến của việc "Chung sống như vợ chồng". Trong trường hợp này, nam và nữ quyết định chia sẻ cuộc sống hàng ngày, chung sức trong việc quản lý gia đình, chăm sóc và nuôi dạy con cái. Mặc dù không có quyết định kết hôn chính thức, nhưng họ xem nhau như vợ chồng và có cam kết lẫn nhau trong cuộc sống gia đình.
Hơn nữa, tình trạng sống chung và có con chung mà không đăng ký kết hôn cũng là một tình huống phổ biến. Trong trường hợp này, nam và nữ quyết định sống chung, có một hoặc nhiều con chung mà không chính thức đăng ký kết hôn. Mặc dù không có hợp đồng hôn nhân, nhưng sự hiện diện của con cái có thể tạo nên một liên kết gia đình mạnh mẽ giữa cả hai bên.
Tuy luật pháp không công nhận các dạng thức sống chung như vợ chồng mà không kết hôn, tuy nhiên, thực tế cho thấy tình trạng này vẫn tồn tại và phổ biến trong xã hội hiện đại. Điều này đòi hỏi sự nhạy bén và linh hoạt từ phía pháp luật để đáp ứng và bảo vệ quyền lợi của những người sống chung như vợ chồng mà không kết hôn, đồng thời đảm bảo sự công bằng và an toàn cho tất cả các bên liên quan.
- Hậu quả pháp lý:
Theo quy định của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014, khi nam và nữ sống chung như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn, sẽ không phát sinh quyền và nghĩa vụ giữa hai bên về vợ chồng. Các quyền, nghĩa vụ liên quan đến con cái, tài sản, nghĩa vụ và hợp đồng sẽ được giải quyết theo quy định tại Điều 15 và Điều 16 của Luật này.
Trong trường hợp nam, nữ đã sống chung như vợ chồng theo quy định trên, nhưng sau đó quyết định đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật, quan hệ hôn nhân sẽ được xác lập từ thời điểm đăng ký kết hôn.
Với quy định trên, có thể hiểu rằng mọi quyền và nghĩa vụ của vợ chồng đối với nhau theo quy định của pháp luật sẽ không được áp dụng với cặp đôi sống chung như vợ chồng. Điều này có nghĩa là nếu không đăng ký kết hôn mà chỉ sống chung như vợ chồng, cả hai bên nam, nữ có thể bị bên còn lại xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp nếu người đó cố tình lợi dụng mối quan hệ chung sống để mưu cầu lợi ích khác ngoài ý định xây dựng một gia đình ấm no, tiến bộ và hạnh phúc.
Ví dụ, theo quy định của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014, vợ chồng phải có nghĩa vụ thương yêu, chung thủy, tôn trọng, quan tâm, chăm sóc và giúp đỡ lẫn nhau; cùng nhau chia sẻ và thực hiện các công việc trong gia đình.
Nếu đã tiến hành đăng ký kết hôn, khi một bên vợ/chồng bị xâm phạm quyền lợi trên, họ có căn cứ pháp lý để yêu cầu bảo vệ từ pháp luật hoặc có thể khởi kiện ra tòa. Ngược lại, nếu chỉ sống chung như vợ chồng mà không có đăng ký kết hôn, không có khung pháp lý nào để đảm bảo quyền lợi khi có tranh chấp.
Quy định này của pháp luật thể hiện sự kiên quyết của Nhà nước trong việc từ chối bảo hộ hôn nhân cho các bên đã xác lập mối quan hệ vợ chồng trên thực tế nhưng không tuân thủ quy định về đăng ký kết hôn.
Tuy nhiên, để tạo cơ hội cho các bên nam, nữ sống chung như vợ chồng được bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 đã quy định cho họ quyền đăng ký kết hôn vào bất kỳ thời điểm nào trong quá trình sống chung. Khi hoàn thành thủ tục đăng ký, các bên sẽ có các quyền và nghĩa vụ vợ chồng theo quy định của pháp luật. Nói cách khác, thời kỳ hôn nhân của họ sẽ được xác lập từ thời điểm đăng ký kết hôn.
Theo quy định của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 và các văn bản pháp luật liên quan, tài sản chung của vợ chồng được xác định như sau.
Tài sản chung của vợ chồng bao gồm các tài sản và thu nhập mà vợ và chồng tạo ra trong thời kỳ hôn nhân. Đây là những tài sản và thu nhập được thu được thông qua lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh, hoa lợi, lợi tức từ tài sản riêng và các nguồn thu nhập hợp pháp khác. Tuy nhiên, sau khi chia tài sản chung, phần tài sản, hoa lợi và lợi tức từ tài sản riêng của mỗi bên sẽ không còn được xem là tài sản chung.
Các tài sản mà vợ và chồng thừa kế chung hoặc được tặng cho chung, cũng như các tài sản khác mà vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung, cũng nằm trong danh mục tài sản chung của vợ chồng.
Quyền sử dụng đất mà vợ chồng có được sau khi kết hôn cũng được xem là tài sản chung của vợ chồng. Tuy nhiên, có một số trường hợp ngoại lệ, bao gồm khi vợ hoặc chồng được thừa kế riêng, được tặng cho riêng hoặc có được thông qua giao dịch bằng tài sản riêng, thì quyền sử dụng đất đó sẽ được xem là tài sản riêng của cá nhân đó.
Nếu không có bằng chứng để chứng minh rõ ràng rằng một tài sản đang tranh chấp là tài sản riêng của mỗi bên, thì tài sản đó sẽ được coi là tài sản chung của vợ chồng.
Đối với tài sản riêng của vợ chồng, Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 cũng đã đưa ra quy định.
Tài sản riêng của vợ chồng bao gồm các tài sản mà mỗi người đã có trước khi kết hôn, tài sản được thừa kế riêng, và tài sản được tặng cho riêng trong thời kỳ hôn nhân. Ngoài ra, tài sản dùng để đáp ứng nhu cầu thiết yếu của vợ chồng và tài sản khác theo quy định của pháp luật thuộc quyền sở hữu riêng của từng cá nhân cũng được coi là tài sản riêng của vợ chồng. Mọi tài sản được hình thành từ tài sản riêng của vợ chồng cũng được coi là tài sản riêng của vợ chồng.
Theo quy định tại Điều 14 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 về việc nam nữ sống chung như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn, có những quy định về giải quyết hậu quả như sau:
- Nam, nữ có đủ điều kiện kết hôn theo quy định của Luật này chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn thì không làm phát sinh quyền, nghĩa vụ giữa vợ và chồng. Quyền, nghĩa vụ đối với con, tài sản, nghĩa vụ và hợp đồng giữa các bên được giải quyết theo quy định tại Điều 15 và Điều 16 Luật Hôn nhân và gia đình 2014.
- Trong trường hợp nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng theo quy định nêu trên nhưng sau đó thực hiện việc đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật thì quan hệ hôn nhân được xác lập từ thời điểm đăng ký kết hôn.
Theo đó, tại Điều 16 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 quy định giải quyết quan hệ tài sản, nghĩa vụ và hợp đồng của nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn như sau:
- Quan hệ tài sản, nghĩa vụ và hợp đồng của nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn được giải quyết theo thỏa thuận giữa các bên;
Trong trường hợp không có thỏa thuận thì giải quyết theo quy định của Bộ luật dân sự và các quy định khác của pháp luật có liên quan.
- Việc giải quyết quan hệ tài sản phải bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của phụ nữ và con; công việc nội trợ và công việc khác có liên quan để duy trì đời sống chung được coi như lao động có thu nhập.
Theo quy định nêu trên, khi nam và nữ sống chung như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn, sẽ không phát sinh quyền và nghĩa vụ giữa hai bên vợ chồng. Tuy nhiên, quan hệ tài sản trong trường hợp này sẽ được giải quyết theo thỏa thuận giữa các bên. Điều này có nghĩa là nam và nữ có thể thỏa thuận với nhau về việc chia sẻ tài sản, quyền lợi và trách nhiệm tài chính trong quá trình sống chung.
Nếu trong trường hợp không có thỏa thuận giữa nam và nữ, thì việc giải quyết quan hệ tài sản sẽ tuân theo quy định của Bộ Luật Dân sự và các quy định khác của pháp luật có liên quan. Điều này đảm bảo rằng quá trình giải quyết tranh chấp tài sản sẽ được thực hiện theo quy định pháp luật và các quy tắc công bằng, nhằm bảo vệ quyền và lợi ích của cả nam và nữ.
Trong việc giải quyết tài sản, cần đảm bảo rằng quyền lợi hợp pháp của phụ nữ và con cái được bảo vệ. Điều này có thể áp dụng trong việc phân chia tài sản, quyền sở hữu, nghĩa vụ tài chính và trách nhiệm phụ huynh. Ngoài ra, công việc gia đình và các công việc khác liên quan để duy trì cuộc sống chung cũng được coi là một hình thức lao động có thu nhập, và có thể được xem xét khi giải quyết quyền lợi tài sản.
Tóm lại, việc giải quyết quan hệ tài sản và các quyền, nghĩa vụ trong trường hợp nam và nữ sống chung như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn đòi hỏi sự thỏa thuận giữa các bên hoặc tuân theo quy định của pháp luật. Điều quan trọng là đảm bảo bảo vệ quyền lợi của tất cả các bên liên quan, đặc biệt là của phụ nữ và con cái, và đảm bảo sự công bằng và hợp lý trong quá trình giải quyết tranh chấp tài sản và các vấn đề liên quan.
CÔNG TY LUẬT KHANG THÁI
Văn phòng Giao dịch:
- P906, Toà CT4-1, KĐT Mễ Trì Hạ, đường Phạm Hùng, phường Mễ Trì, quận Nam Từ Liêm, TP. Hà Nội
- Số Giấy phép hoạt động: 0 1 0 2 1 2 6 0 /TP-ĐKHĐ
- Do sở Tư pháp thành phố Hà Nội cấp ngày 16/01/2017.
- Mã số thuế: 0 1 0 7 7 1 9 2 2 0
- Hotline: 0 9 4 6 9 7 1 7 7 7
- Email: luatsuphonghn@gmail.com
- Website: http://luatkhangthai.vn
Bản quyền thuộc sở hữu Công ty luật Khang Thái. Mọi cá nhân, tổ chức copy dữ liệu từ website đều phải ghi rõ nguồn. Công ty không thu thập thông tin và sử dụng thông tin của khách hàng thông qua website này. Website chỉ giới thiệu dịch vụ và thông tin của doanh nghiệp.